Giá bán : thỏa thuận, vui lòng liên hệ: 0976 275 983/ 0941 88 99 83, email: hoanganhquy2009@gmail.com - Mr. Hoàng Anh Quý!
Chi tiết:
Đây là ảnh 1 số loại liều kế cá nhân mà chúng tôi đang cung cấp hiện nay
Loại số 2 và số 6 hiện thị trường đã không còn cung cấp mới, chỉ còn các liều kế cũ vẫn tiếp tục sử dụng,
Thay thế vào đó loại số 2 đã đổi mẫu mã thành loại số 1
Loại số 6 thì có thể dùng loại số 4 thay thế tương đương
Loại số 1 chất nhiệt phát quang CaSO4:Dy dạng bột cũng giống loại số 5 về nhân TLD (là chất nhiệt phát quang bên trong), tuy nhiên Loại số 1 nhà sản xuất cho phép cho kết quả 3 chỉ số Hp(10), Hs(0,07) và Hp(3) theo quy định tại thông tư 19/2012/TT-BKHCN ban hành năm 2012 của BKHCN, chỉ số Hs(0,07) và Hp(3) được suy dẫn từ chỉ số Hp(10) theo công thức khoa học của Quốc tế. Riêng loại số 5 chỉ đọc 1 chỉ số Hp(10) do cả loại số 1 và số 5 đều chỉ có 1 nhân TLD bên trong.
Đây là 2 loại liều kế giẻ nhất thị trường hiện nay vì tỷ lệ hoá nội địa là 50% và 100% và được phép lưu hành hợp pháp bởi cơ quan chức năng.
Loại số 3 có chất nhiệt phát quang Li:F dạng rắn, muốn đọc 1-3 chỉ số sẽ phải tích hợp 1-3 nhân, chi phí sẽ thay đổi theo số nhân, và được thiết kế độ dày chỗ mắt liều kế khác nhau phản ảnh Hp(10) là đâm xuyên mô, Hs(0,07) đâm xuyên da, và Hp(3) đâm xuyên mô mắt. Loại này "hịn" hơn CaSO4:Dy chút và hoàn toàn nhân là nhập khẩu vỏ có thể nội địa hoặc nhập khẩu. Loại này sẽ đắt hơn loại CaSO4:dy. Nó đáp ứng năng lượng tán xạ thấp tốt.
Loại số 4 thì dùng chất quang phát quang OSL nhập khẩu từ Mỹ hoặc Nhật, công nghệ Nhật bản, cho khả năng tuỳ biến cài đặt hiệu chuẩn lúc ban đầu khá linh hoạt, thuật toán khá phức tạp tuy nhiên khả năng đọc kết quả nhanh, cho cả 3 chỉ số, lưu hành hợp pháp. Đây là loại liều kế có giá trung bình đắt hơn hai loại còn lại là CaSO4:Dy và Li:F.
Tất cả đều tốt và hợp pháp để sử dụng, chỉ khách nhau hãng, xuất xứ, chất liệu của nhân bên trong, thuật toán và kĩ thuật đọc,...Ở đây có hai khái niệm TLD và OSL nói dễ hiểu, TLD là nhiệt phát quang khi đọc người ta dùng gia nhiệt để phá bẫy hấp thụ tia X, gamma giải phóng ra ánh sáng, còn OSL là công nghệ quang phát quang, khi đọc người ta dùng ánh sáng chiếu vào bẫy năng lượng để sinh ra ánh sáng, cường độ ánh sáng được giải phóng tỉ lệ tương đối tuyến tính với liều bức xạ đã được hấp thụ, đơn vị đo kết quả thường là mSv
Duy có một điểm là nếu mà đọc liều kế là phải gối đầu cho nên sét về mặt chi phí thì loại CaSO4:Dy có lợi thế vì chi phí thấp hơn khi mua ban đầu.
Giá đọc của cả 4 loại đều tương đương nhau.
Sau mỗi lần đọc tất cả các loại liều kế đều coi như được reset về 0 và khi đó nó tương đương với một liều kế mới chưa sử dụng về mặt công dụng.
Cũng theo quy định tại thông tư trên, tại điều 15, cứ 3 tháng phải gửi liều kế đi đọc để giám sát liều cho nhân viên vận hành sử dụng liều kế cá nhân, như vậy 1 năm thông thường 1 liều kế cá nhân được đọc 4 lần.
Loại số 2 và số 6 hiện thị trường đã không còn cung cấp mới, chỉ còn các liều kế cũ vẫn tiếp tục sử dụng,
Thay thế vào đó loại số 2 đã đổi mẫu mã thành loại số 1
Loại số 6 thì có thể dùng loại số 4 thay thế tương đương
Loại số 1 chất nhiệt phát quang CaSO4:Dy dạng bột cũng giống loại số 5 về nhân TLD (là chất nhiệt phát quang bên trong), tuy nhiên Loại số 1 nhà sản xuất cho phép cho kết quả 3 chỉ số Hp(10), Hs(0,07) và Hp(3) theo quy định tại thông tư 19/2012/TT-BKHCN ban hành năm 2012 của BKHCN, chỉ số Hs(0,07) và Hp(3) được suy dẫn từ chỉ số Hp(10) theo công thức khoa học của Quốc tế. Riêng loại số 5 chỉ đọc 1 chỉ số Hp(10) do cả loại số 1 và số 5 đều chỉ có 1 nhân TLD bên trong.
Đây là 2 loại liều kế giẻ nhất thị trường hiện nay vì tỷ lệ hoá nội địa là 50% và 100% và được phép lưu hành hợp pháp bởi cơ quan chức năng.
Loại số 3 có chất nhiệt phát quang Li:F dạng rắn, muốn đọc 1-3 chỉ số sẽ phải tích hợp 1-3 nhân, chi phí sẽ thay đổi theo số nhân, và được thiết kế độ dày chỗ mắt liều kế khác nhau phản ảnh Hp(10) là đâm xuyên mô, Hs(0,07) đâm xuyên da, và Hp(3) đâm xuyên mô mắt. Loại này "hịn" hơn CaSO4:Dy chút và hoàn toàn nhân là nhập khẩu vỏ có thể nội địa hoặc nhập khẩu. Loại này sẽ đắt hơn loại CaSO4:dy. Nó đáp ứng năng lượng tán xạ thấp tốt.
Loại số 4 thì dùng chất quang phát quang OSL nhập khẩu từ Mỹ hoặc Nhật, công nghệ Nhật bản, cho khả năng tuỳ biến cài đặt hiệu chuẩn lúc ban đầu khá linh hoạt, thuật toán khá phức tạp tuy nhiên khả năng đọc kết quả nhanh, cho cả 3 chỉ số, lưu hành hợp pháp. Đây là loại liều kế có giá trung bình đắt hơn hai loại còn lại là CaSO4:Dy và Li:F.
Tất cả đều tốt và hợp pháp để sử dụng, chỉ khách nhau hãng, xuất xứ, chất liệu của nhân bên trong, thuật toán và kĩ thuật đọc,...Ở đây có hai khái niệm TLD và OSL nói dễ hiểu, TLD là nhiệt phát quang khi đọc người ta dùng gia nhiệt để phá bẫy hấp thụ tia X, gamma giải phóng ra ánh sáng, còn OSL là công nghệ quang phát quang, khi đọc người ta dùng ánh sáng chiếu vào bẫy năng lượng để sinh ra ánh sáng, cường độ ánh sáng được giải phóng tỉ lệ tương đối tuyến tính với liều bức xạ đã được hấp thụ, đơn vị đo kết quả thường là mSv
Duy có một điểm là nếu mà đọc liều kế là phải gối đầu cho nên sét về mặt chi phí thì loại CaSO4:Dy có lợi thế vì chi phí thấp hơn khi mua ban đầu.
Giá đọc của cả 4 loại đều tương đương nhau.
Sau mỗi lần đọc tất cả các loại liều kế đều coi như được reset về 0 và khi đó nó tương đương với một liều kế mới chưa sử dụng về mặt công dụng.
Cũng theo quy định tại thông tư trên, tại điều 15, cứ 3 tháng phải gửi liều kế đi đọc để giám sát liều cho nhân viên vận hành sử dụng liều kế cá nhân, như vậy 1 năm thông thường 1 liều kế cá nhân được đọc 4 lần.